Enzalutamide ít tan trong nước. Độ tan của Enzalutamide tăng lên thông qua các caprylocaproyl macrogolglyceride là chất nhũ hóa/chất hoạt động bề mặt. Trong nghiên cứu tiền lâm sàng, hấp thu của Enzalutamide tăng lên khi hòa tan trong caprylocaproyl macrogolglyceride.
Dược động học của Enzalutamide được đánh giá ở bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt và ở nam giới khỏe mạnh. Thời gian bán thải (t1/2) trung bình của Enzalutamide ở bệnh nhân sau khi uống liều đơn là 5,8 ngày (từ 2,8 tới 10,2 ngày) và trạng thái ổn định đạt được khoảng 1 tháng. Đối với uống hàng ngày, Enzalutamide tích lũy khoảng 8,3 lần so với liều đơn. Nồng độ huyết tương biến đổi hàng ngày thấp (tỉ lệ đỉnh-tới-đáy là 1,25). Thải trừ Enzalutamide đầu tiên thông qua chuyển hóa tại gan, tạo sản phẩm có hoạt tính cân bằng với hoạt tính Enzalutamide và đi vào tuần hoàn với nồng độ trong huyết tương giống như Enzalutamide.
Hấp thu
Nồng độ huyết tương tối đa (Cmax) của Enzalutamide ở bệnh nhân được quan sát từ 1 đến 2 giờ sau khi uống thuốc. Dựa trên nghiên cứu cân bằng khối lượng trên người, hấp thu Enzalutamide đường uống được xác định ít nhất là 8,42%. Enzalutamide không phải là chất nền của các chất vận chuyển P-gp hoặc BCRP. Ở trạng thái ổn định, giá trị Cmax trung bình của Enzalutamide và chất chuyển hóa có hoạt tính của nó tương ứng là 16,6 μg/mL (23% hệ số biến thiên [CV]) và 12,7 μg/mL (30% CV).
Thức ăn không ảnh hưởng lâm sàng tới mức độ hấp thu. Ở các thử nghiệm lâm sàng, Xtandi được sử dụng không liên quan tới thức ăn.
Phân bố
Thể tích phân bố trung bình (V/F) của Enzalutamide ở bệnh nhân sau khi uống liều đơn là 110 L (29% CV). Thể tích phân bố của Enzalutamide lớn hơn thể tích của toàn bộ nước trong cơ thể, biểu hiện của sự phân bố lớn ngoài mạch. Các nghiên cứu ở loài gặm nhấm chỉ ra rằng Enzalutamide và chất chuyển hóa có hoạt tính có thể đi qua hàng rào máu não.
Enzalutamide gắn với protein huyết tương 97% tới 98%, chủ yếu là albumin. Chất chuyền hóa có hoạt tính gắn 95% với protein huyết tương. Không có sự thay thế vị trí gắn giữa Enzalutamide và các thuốc gắn mạnh với protein khác (warfarin, ibuprofen và acid salicylic) trên in vitro.
Chuyển dạng sinh học
Enzalutamide được chuyển hóa rộng rãi. Có hai chất chuyển hóa chính ở huyết thanh người: N-desmethyl Enzalutamide (có hoạt tính) và một dẫn xuất acid carboxylic (không có hoạt tính). Enzalutamide được chuyển hóa bởi CYP2C8 và tới một mức độ thấp hơn bởi CYP3A4/5, cả hai đóng vai trò trong việc tạo ra chất chuyển hóa có hoạt tính. Trên in vitro, N-desmethyl Enzalutamide được chuyển hóa thành acid carboxylic bởi carboxylesterase 1, là enzym cũng đóng vai trò phụ trong chuyển hóa Enzalutamide thành acid carboxylic. N-desmethyl Enzalutamide không bị chuyển hóa bởi các CYP trên in vitro.
Dưới các điều kiện của việc sử dụng lâm sàng, Enzalutamide là một chất cảm ứng mạnh CYP3A4, cảm ứng trung bình CYP2C9 và CYP2C19 và không có tác dụng liên quan lâm sàng đối với CYP2C8.
Thải trừ
Độ thanh thải trung bình (CL/F) của Enzalutamide ở bệnh nhân từ 0,520 tới 0,564 L/h.
Sau khi uống 14C-Enzalutamide, 84,6% hoạt độ phóng xạ được thu hồi ở thời điểm 77 ngày sau khi uống: 71,0% được thu hồi ở nước tiểu (chủ yếu là dạng chuyển hóa không hoạt tính, một lượng dạng vết Enzalutamide và chất chuyển hóa có hoạt tính) và 13,6% được thu hồi ở phân (0,39% của liều ở dạng Enzalutamide không biến đổi).
Dữ liệu in vitro chỉ ra rằng Enzalutamide không phải là chất nền của OATP1B1, OATP1B3, hoặc OCT1; và N-desmethyl Enzalutamide không phải là chất nền của P-gp hoặc BCRP.
Dữ liệu in vitro chỉ ra rằng Enzalutamide và các chất chuyển hóa chính của nó không ức chế các chất vận chuyển sau đây ở nồng độ liên quan tới lâm sàng: OATP1B1, OATP1B3, OCT2, hoặc OCT1.
Tuyến tính
Không có độ lệch lớn từ tỉ lệ liều được quan sát qua các mức liều từ 40 tới 160 mg. Giá trị Cmax ở trạng thái cân bằng của Enzalutamide và chất chuyển hóa có hoạt tính ở các bệnh nhân riêng lẻ không thay đổi trong suốt hơn một năm điều trị mạn tính, chứng tỏ dược động học tuyến tính theo thời gian khi đạt được trạng thái cân bằng.
Suy thận
Không có nghiên cứu suy thận chính thức nào của Enzalutamide được hoàn thành. Những bệnh nhân có creatinine huyết thanh >177 µmol/L 2( mg/dL) được loại trừ ra khỏi các thử nghiệm lâm sàng. Dựa trên phân tích dược động học quần thể, không cần thiết phải điều chỉnh liều cho bệnh nhân có giá trị độ thanh thải creatinine (CrCL) được tính toán ≥ 30 mL/phút (ước tính bằng công thức Cockcroft và Gault).
Enzalutamide không được đánh giá ở bệnh nhân suy thận nặng (CrCl <30mL/phút) hoặc bệnh thận giai đoạn cuối và được khuyên cảnh báo khi điều trị những bệnh nhân này.
Enzalutamide không chắc chắn được loại trừ đáng kể bởi lọc máu định kỳ hoặc lọc màng bụng ngoại trú liên tục.
Suy gan
Suy gan không có ảnh hưởng rõ rệt tới phơi nhiễm toàn thể với Enzalutamide hoặc chất chuyển hóa có hoạt tính của nó.
Dược động học của Enzalutamide được đánh giá ở những đối tượng ban đầu có suy gan nhẹ (N=6) vừa (N=8) hoặc nặng (N=8) (tương ứng với Child-Pugh A,B và C) và ở 22 đối tượng đối chứng ghép cặp có chức năng gan bình thường. Sau khi uống liều đơn 160 mg Enzalutamide, AUC và Cmax của Enzalutamide ở các đối tượng có suy gan nhẹ tương ứng tăng 5% và 24%, AUC và Cmax của Enzalutamide ở đối tượng suy gan vừa tương ứng tăng 29% và giảm 11%, AUC và Cmax của Enzalutamide ở đối tượng suy gan nặng tương ứng tăng 5% và giảm 41% khi so sánh với đối tượng đối chứng khỏe mạnh. Đối với tổng Enzalutamide không gắn cộng với chất chuyển hóa không gắn, AUC và Cmax ở đối tượng suy gan nhẹ tương ứng tăng 14% và 19%, AUC và Chax ở đối tượng suy gan vừa tương ứng tăng 14% và giảm 17%, AUC và Cmax ở đối tượng suy gan nặng tương ứng tăng 34% và giảm 27% khi so sánh với đối tượng đối chứng khỏe mạnh.
Chủng tộc
Hầu hết bệnh nhân trong các nghiên cứu lâm sàng có đối chứng (>75%) là người da trắng.
Dựa trên dữ liệu dược động học từ nghiên cứu ở bệnh nhân người Nhật Bản và Trung Quốc bị ung thư tuyến tiền liệt, không có sự khác biệt liên quan tới lâm sàng nào trong việc dùng thuốc giữa các chủng tộc này. Không có dữ liệu đầy đủ để đánh giá sự khác biệt về dược động học của Enzalutamide ở các chủng tộc khác.
Người già
Không có ảnh hưởng liên quan tới lâm sàng của tuổi đến dược động học của Enzalutamide được nhìn nhận khi phân tích được động học trên quần thể người già.