Giao tại:
Giỏ hàng

Đã thêm sản phẩm vào giỏ thuốc

Xem giỏ thuốc
Hotline (8:00 - 21:30) 1900 1572

Chọn tỉnh thành, phường xã để xem chính xác giá và tồn kho

Địa chỉ đã chọn: Thành phố Hồ Chí Minh

Chọn
Thông tin

Ngọc trúc

Thông tin hoạt chất chỉ mang tính chất tham khảo chung. Để biết chi tiết của từng thuốc, mời bạn xem hướng dẫn sử dụng trong trang chi tiết.

Tên khác
Polygonatum officinale All, Polygonatum vulgare Desf, Bột rễ Ngọc trúc
Công dụng

- Ngọc trúc có vị ngọt, tính mát, vào 2 kinh phế và vị, có tác dụng tiêu đờm, nhuận táo, dưỡng âm, mát huyết, sinh tân dịch, trừ khát.

- Ngọc trúc được dùng chữa ho khan, khô khát, sốt nóng âm ỉ về đêm, mồ hôi trộm hư lao, kém ăn, khó tiêu, đái nhắt, di tinh, thuốc bổ trong trường hợp suy nhược cơ thể, và thuốc phòng các bệnh ở phụ nữ sau khi đẻ.

- Ngọc trúc còn được dùng trong viên Lục vị hoàn gia giảm để chữa viêm chân răng có mủ, và trong Bổ phế thang gia giảm chữa ho ra đờm loãng có khi có máu. Ngày dùng 6 - 12g dạng thuốc sắc, dùng nông hay phối hợp với các vị thuốc khác.

Liều dùng - Cách dùng

1. Chữa âm hư phát sốt, ho khan, miệng khô, họng ráo, ra mồ hôi trộm, cơ thể suy nhược:

- Ngọc trúc 16g; mạch môn, sa sâm, mỗi vị 12g; cam thảo dây 8g. Sắc uống ngày một thang.

- Ngọc trúc, sinh địa, mạch môn, sa sâm, mỗi vị 12g; đường phèn 20g. Sắc uống ngày một thang, hoặc làm viên uống.

2. Chữa lao phổi:

- Nguyệt hoa thang gia giảm: Ngọc trúc 8g; thiên môn, sinh địa, mạch môn, hoài sơn, phù bình, a giao, mỗi vị 12g, bách bộ, bối mẫu, bách hợp, mỗi vị 8g. Sắc uống ngày một thang.

- Bổ phế thang gia giảm: Ngọc trúc 12g; đảng sâm 16g, bạch truật, hoài sơn, mạch môn, bách bộ chế, mỗi vị 12g; ngũ vị tử 6g. Sắc uống ngày một thang.

3. Chữa viêm màng phổi do lao (Sa sâm mạch đồng thang):

Ngọc trúc 16g; sa sâm, mạch môn, bạch thược, địa cốt bì, mỗi vị 12g; ngân sài hồ 8g, trần bì, bởi mẫu, mỗi vị 6g. Sắc uống ngày một thang.

4. Chữa viêm khớp dạng thấp:

Ngọc trúc 400g; đương quy 2000g; hoài sơn, hà thủ ô đỏ, đan sâm, mỗi vị 400g; đơn bì, bạch linh, mạch môn, trạch tả, mỗi vị 200g; thanh bì, chỉ thực, thù nhục, mỗi vị 100g. Các vị thuốc tán nhỏ, dùng mật ong hoặc sirô luyện thành viên 5g, ngày uống 4 - 6 viên.

5. Chữa mắt đau đỏ, thấy hoa đèn, mù tối

Ngọc trúc 12g; sinh địa, huyền sâm, thảo quyết minh sao, cúc hoa, mỗi vị 10g; bạc hà 2g. Sắc xông hơi và uống.

Không sử dụng trong trường hợp sau

Chú ý: Người dương suy âm thịnh, tỳ hư đờm thấp ứ trệ không dùng được.

Đặc điểm

- Tên đồng nghĩa: Polygonatum vulgare Desf.

- Họ: Thiên Môn (Asparagaceae)

- Mùa hoa: tháng 3 - 5.

- Mùa quả: tháng 6 - 9.

Mô tả

- Cây thảo, sống nhiều năm, cao 40 - 60cm. Thân rễ mọc bò ngang, chia nhiều đốt, màu trắng hoặc vàng nhạt. Thân khí sinh thường đơn độc, màu trắng ở phía dưới. Lá mọc so le (thường hướng về một phía), không cuống, hình trứng, dài 6 - 12cm, rộng 3 - 6cm, gốc tròn, đầu nhọn, gân hình cung sít nhau, mặt trên màu lục, mặt dưới trắng nhạt.

- Cụm hoa mọc ở kẽ lá, có cuống ngắn mang 2 hoa màu trắng, mọc thõng xuống; bao hoa hàn liền hình chuông, dài 1,5 - 2cm, gồm 3 lá dài, 3 cánh hoa, 6 nhị xếp thành 2 vòng, đính trên bao hoa, chỉ nhị ngắn, nhân, bao phấn hướng vào trong.

- Quà mọng, hình cầu, đường kính 5 - 7mm, khi chín màu tím đen; hạt 3 - 6, màu vàng có chấm.

Phân bố, sinh thái

- Ngọc trúc có nguồn gốc ở Trung Quốc. Hiện nay, loại dược liệu này chủ yếu do trồng trọt.

- Ở Việt Nam, ngọc trúc cũng là cây trồng trong vườn của một số gia đình ở huyện Sa Pa, Bắc Hà (Lào Cai); Sìn Hồ, Phong Thể (Lai Châu) và Đồng Văn (Hà Giang). Cây nhập trồng chưa rõ thời gian từ bao giờ. Theo một số gia đình người Hoa và người H’ Mông ở vùng Phó Bảng (huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang), ngọc trúc được lấy từ Vân Nam - Trung Quốc cách đây hàng chục năm. Cây trồng để làm thuốc trong phạm vi cộng đồng, chưa trở thành hàng hoá.

- Ngọc trúc là cây ưa ẩm và chịu bóng, thường mọc dưới tán của những cây ăn quả như đào, lê, mận,... hoặc trồng thành luống ở vườn rau. Cây trồng ở các địa phương trên tỏ ra thích nghi với điều kiện khí hậu ẩm mát của vùng nhiệt đới núi cao (khoảng 1400 - 1600m). Nhiệt độ trung bình năm từ 14 đến 16 độ C, về mùa đông có thể có băng giá nhưng cây vẫn tồn tại được. Ngọc trúc ra hoa quả hàng năm. Cây con mọc từ hạt vào khoảng tháng 5 - 6. Cây có khả năng đẻ nhánh khoẻ từ phần thân rễ, thường mọc thành từng khóm lớn có nhiều nhánh.

- Trại thuốc Sa Pa (Viện Dược liệu) là nơi duy nhất ở Việt Nam đang giữ giống ngọc trúc với mục đích bảo tồn lâu dài.

Bộ phận dùng

Thân rễ thu hái vào mùa thu, đào về, rửa sạch, cắt bỏ rễ con, đem phơi héo, hay đồ qua rồi lăn cho mềm, phơi khô Ngọc trúc thường được chế biến như sau:

- Dạng thái phiến: Lấy dược liệu đã phơi khô thái phiến vát dài 3 - 5cm, dày 2 - 5cm.

- Dạng tẩm mật ong: Lấy ngọc trúc phiến tẩm đều với mật ong (cứ 10kg ngọc trúc dùng 1-1,5kg mật ong) trong 30 phút, rồi dùng lửa nhỏ sao đến khi có màu vàng, thơm, sờ không dính tay là được.

- Dạng chưng: Ngọc trúc rửa sạch, đồ 6 - 8 giờ, ủ 1 ngày 1 đêm; tiếp tục làm như vậy 2 - 3 lần đến khi thuốc có màu đen, thái khúc dài 2 - 3cm.

- Dạng chế với rượu: (Ngọc trúc 10kg, rượu 1,5kg). Ngọc trúc rửa sạch, ủ mềm đồ 8 giờ cho mềm, thái khúc như trên, thêm rượu và chưng 4 giờ. Đựng được liệu vào dung cụ bằng đồng hoặc nhóm.

Sản phẩm có chứa Ngọc trúc

widget

Chat Zalo(8h00 - 21h30)

widget

1900 1572(8h00 - 21h30)