Giao tại:
Giỏ hàng

Đã thêm sản phẩm vào giỏ thuốc

Xem giỏ thuốc
Hotline (8:00 - 21:30) 1900 1572

Chọn tỉnh thành, phường xã để xem chính xác giá và tồn kho

Địa chỉ đã chọn: Thành phố Hồ Chí Minh

Chọn
Thông tin

Nhân sâm

Thông tin hoạt chất chỉ mang tính chất tham khảo chung. Để biết chi tiết của từng thuốc, mời bạn xem hướng dẫn sử dụng trong trang chi tiết.

Tên khác
Panax Ginseng, Bột (rễ) ginseng, Hồng sâm cô đặc, Chiết xuất hồng sâm Hàn Quốc, Cao Nhân Sâm, Chiết xuất Nhân sâm
Công dụng

Nhân sâm có vị ngọt, hơi đắng, tính ôn, vào các kinh: tỳ, phế, tâm, có tác dụng đại bổ nguyên khí, phục mạch cố thoát, sinh tân, an thần, bổ tỳ ích phế.

Sách “Bản kinh” (Trung Quốc) còn ghi nhân sâm chủ bổ ngũ tạng, an thần kinh, chỉ kinh quý, trừ tà khí, minh mục, khai tâm tích trí.

Nhân sâm là một vị thuốc cổ truyền trong đông y. Các sách cổ thường ghi nhận sâm bổ năm tạng (tâm, can, tỳ, phế, thận) yên tinh thần, định hồn phách, làm khỏi sợ hãi, trừ tà khí, sáng mắt, uống lâu nhẹ mình, tăng tuổi thọ, chữa các chứng đau ruột, dạ dày, nôn mửa.

Nhân sâm là một vị thuốc bổ quý hiếm trong y học cổ truyền, làm tăng thể lực và trí lực, dùng trong trường hợp cơ thể suy yếu, kiệt sức, mệt mỏi và trong thời gian dưỡng bệnh. Ngoài ra, dược điển một số nước có ghi nhân sâm dùng chữa bệnh tim mạch, tiểu đường, thần kinh suy nhược, dương ủy. Theo y lý cổ truyền, nhân sâm chủ trị: thở khó ho hen, tim đập hồi hộp, gây tràn dịch tổn thương, miệng khát, đái đường, suy nhược cơ thể, mất máu, dương ủy, lạnh cung, tỳ hư tiết tả.

Liều dùng - Cách dùng

Liều dùng: ngoài những chỉ định đặc biệt (như dùng cho cấp cứu), liều thường dùng hàng ngày là 2-4g. Dùng dưới dạng lát cắt ngậm, nước sắc, rượu thuốc, cao hoặc hoàn tán. Nhân sâm dùng phối hợp với phụ tử chữa vong dương hư thoát, khó thở, chóng mặt, ra mồ hôi nhiều; với đương quy chữa mất máu nhiều và đột ngột, khí đoản mạch vi; với long cốt chữa di tinh; với tỳ bà chữa ợ chua; với hoàng kỳ chữa âm hư triều nhiệt, ho, nôn ra máu; với ngũ vị tử chữa nguyên khí bất túc; với tam thất chữa hư lao, chảy máu, hãn huyết đục thoát; với thục địa chữa nhiệt bệnh, khí thương, tân quỵ ; với thạch cao chữa tiểu đường.

Dược lý

Đối với hệ thần kinh trung ương:

Nhân sâm có tác dụng đặc biệt với hệ thần kinh trung ương. Căn cứ vào quan sát trên điện não đồ và dùng phương pháp nghiên cứu phản xạ có điều kiện thấy nhân sâm chủ yếu tăng cường quá trình hưng phấn của vỏ đại não, đồng thời có thể tăng cường quá trình ức chế, cải thiện tính linh hoạt của hoạt động thần kinh, hồi phục bình thường khi có sự rối loạn giữa hai quá trình trên. Lấy hoạt động phản xạ có điều kiện làm chỉ tiêu theo dõi thì thấy tác dụng gây hưng phấn vỏ đại não của nhân sâm mạnh hơn cafein và kém hơn ngũ vị tử bắc. Cũng có báo cáo cho rằng tác dụng gây hưng phấn vỏ đại não của nhân sâm kém cafein và có liên quan mật thiết với loại hình thần kinh của súc vật thí nghiệm. Nhân sâm đối kháng với tác dụng ức chế phản xạ có điều kiện của morphin và ethanol. Trong thí nghiệm về phản xạ có điều kiện, dùng phản ứng lẩn tránh thụ động trên chuột cống trắng, thấy cao nhân sâm và các gensenosid làm tăng khả năng học tập và khả năng lưu giữ cách cư xử đã học được. Trên người, nhân sâm cũng có tác dụng tăng cường quá trình hưng phấn của vỏ đại não, đồng thời cũng tăng cường quá trình ức chế nhưng tác dụng tăng cường ức chế không mạnh bằng bromid. Nhân sâm còn nâng cao khả năng làm việc bằng thể lực và trí lực của người. Trên động vật thí nghiệm, tác dụng kháng mỏi mệt (kéo dài thời gian bơi) của nhân sâm rất rõ rệt. Đối với người, tác dụng kháng mỏi mệt cũng đã được chứng minh từ xưa. Lý Thời Trần (Trung Quốc) trong sách “Bản thảo cương mục” có ghi: cho 2 người chạy, một người ngậm nhân sâm, một người không, sau khi chạy độ 3-5 dặm, người không ngậm sâm thở mạnh, hổn hển còn người ngậm nhân sâm thở bình thường.
Nhân sâm dùng với liều tương đối lớn có tác dụng gây trấn tĩnh, làm giảm hoạt động tự nhiên của động vật thí nghiệm. Trái với những báo cáo trước đây, nhân sâm đối kháng đối với tác dụng gây co giật của các thuốc kích thích thần kinh trung ương, đối với hiệu lực gây ngủ của nembutal, nhân sâm có tác dụng hiệp đồng; còn trên thí nghiệm mãn tính, nhân sâm không thể hiện tác dụng gây trấn tĩnh hoặc gây hưng phấn. Về cơ chế tác dụng đối với hệ thần kinh trung ương, có thể là nhân sâm làm tăng quá trình sinh tổng hợp và giải phóng acetylcholin, đồng thời làm giảm lượng scrotonin trong não chuột thí nghiệm. Nhưng cũng có báo cáo cho rằng hàm lượng scrotonin không bị ảnh hưởng rõ rệt. Đối với người, nhân sâm có tác dụng cải thiện giấc ngủ rõ rệt, liều lớn làm xuất hiện tác dụng gây chấn tĩnh.

Đối với chức năng phản ứng của cơ thể

Cũng như các vị ngũ vị tử, ngũ gia bì, nhân sâm có tác dụng sinh thích nghi (adaptogen) nghĩa là có khả năng tăng sức đề kháng không đặc hiệu của cơ thể đối với những yếu tố gây độc hại. Trên tế bào nuôi cấy của các loại động vật có vú, cơ quan cô lập hoặc động vật hoàn chỉnh xử lý với nhân sâm trước và trong khi cho tiếp xúc với các stress lý học, hóa học hoặc sinh học, đều có khả năng tăng cường sức chống đỡ của động vật hoặc của cơ quan tương ứng với tác dụng dây tổn hại của các tác nhân gây stress. Những kết quả này cũng được chứng minh trong trường hợp nhiễm độc do chiếu xạ, lây nhiễm virus, cấy ghép ung thư, nhiễm độc rượu, carbon tetrachloride, thiếu oxy, áp lực giảm, stress tinh thần, sốc điện hoặc cử động gò bó. Trên chó gây mất máu với lượng lớn hoặc bị ngạt thở, tiêm ngay lập tức dịch nhân sâm làm cho huyết áp đã bị hạ thấp dần dần tăng cao đến mức ổn định và giúp động vật hồi phục sức khỏe bình thường. Do có tác dụng làm thay đổi tính phản ứng của cơ thể, nên dùng nhân sâm có thể cứu gà khỏi tử vong sau khi đã tiêm ký sinh trùng sốt rét. Nhân sâm dùng dài ngày còn có khả năng phòng ngừa được phản ứng gây sốt do tiêm vaccin gây nên, giảm độc tính một số chất độc (benzen) đối với cơ thể, có tác dụng phòng ngừa sốc quá mẫn và những triệu chứng do thiếu vitamin B1, B2 gây nên. Nhung nhân sâm không có tác dụng đối kháng với adrenalin và histamin. Cơ chế tác dụng có thể là thông qua trục hạ đồi – tuyến yên – tuyến thượng thận. Trên chuột cống trăng tiêm xoang bụng các ginscnosid làm tăng cao hàm lượng adrenocorticotropic hocmon (ACTH) và corticosteron. Trước lúc dùng nhân sâm, xử lý động vật với dexmethason để ức chế chức năng của hạ đồi và tuyến yên sẽ ngăn cản được sự giải phóng (ACTH) và corticosteron và đã chứng minh sự tăng hàm lượng corticosteron trong huyết thanh là do gián tiếp thông qua sự giải phóng ACTH từ tuyến yên.

Đối với hệ nội tiết

  • Với trục tuyến yên – vỏ thượng thận: nhân sâm không có tác dụng kiểu corticoid, nhưng đối với trục tuyến yên – vỏ thượng thận có ảnh hưởng nhất định. Các gingsenoid đều có tác dụng kháng kích ứng, ức chế rõ rệt những thay đổi về trọng lượng của tuyến thượng thận, tuyến ức, lách và tuyến giáp trạng trong quá trình phản ứng kích ứng; đối với hàm lượng vitamin C và cholesterol trong tuyến thượng thận có ảnh hưởng rõ rệt.

  • Với tuyến sinh dục, nhân sâm không có tác dụng kiểu nội tiết sinh dục, nhưng có tác dụng kích thích tuyến yên phân biệt các hormon hướng sinh dục, tăng nhanh quá trình trưởng thành giới tính của súc vật thí nghiệm, kéo dài thời kỳ động dục của chuột cái đã trưởng thành, nếu đem thiến buồng trứng thì tác dụng trên sẽ mất đi. Cao nhân sâm tiêm dưới da cho chuột cống trắng có tác dụng tăng cường khả năng giao phối của chuột đực. Thuốc còn có tác dụng kích thích sự sinh tinh ở chuột cống và thỏ. Tăng cường khả năng hoạt động và thời gian sống của tinh trùng ở ngoài cơ thế.

  • Với các tuyến nội tiết khác, nhân sâm dùng liều lớn trong thời gian ngắn tăng cường hoạt động tuyến giáp trạng thỏ, còn nếu dùng dài ngày lại có tác dụng ức chế hoạt động tuyến giáp trạng trên chuột cống trắng. Rễ, thân và lá nhân sâm có tác dụng kháng lợi niệu, tác dụng này có liên quan đến tác dụng thúc đẩy tuyến thượng thận tiết hormon corticosteroid. Thành phần có tác dụng kháng lợi niệu là panaxosides.

Đối với chuyển hóa chất

  • Với chuyển hóa đường: đối với thỏ đường huyết tăng do tiêm adrenalin hoặc dung dịch glucose ưu trương, nhân sâm có tác dụng làm hạ đường huyết. Trên chí bị tiểu đường thực nghiệm, trên cơ sở dùng insulin, dùng thêm nhân sâm có tác dụng cải thiện các triệu chứng chung và gây hạ đường huyết nhưng không thể thay thế insulin giải quyết được rối loạn chuyển hóa của đường. Trên chuột cống trắng đực bị bệnh tiểu đường do alloxan gây nên, nhân sâm có tác dụng khống chế được phần nào lượng đường huyết nhưng không ngăn ngừa được bệnh phát sinh và gây tử vong. Tác dụng của nhân sâm đối với chuyển hóa đường về cơ chế chưa được làm rõ hoàn toàn. Có báo cáo cho rằng nhân sâm tăng cường hô hấp tế bào, thúc đẩy quá trình phân hủy đường, tăng cường chuyển hóa năng lượng. Trên chuột cống trắng đã cắt bỏ tuyến giáp trạng và tinh hoàn, nhân sâm có tác dụng tăng cường chuyển hóa cơ bản.

  • Với các chuyển hóa khác: dạng chiết từ nhân sâm thúc đẩy quá trình sinh tổng hợp acid ribonucleic. Với liều lượng thích hợp, nhân sâm làm tăng thể trọng chuột và tăng tỷ lệ albumin/globulin trong huyết tương. Trên thỏ bình thường, ginsenoside không có tác dụng với cholesterol – huyết, nhưng trên thỏ có cholesterol – huyết tăng cao thì nhân sâm và panaxosides có tác dụng hạ thấp. Adenosin chiết được từ cao nước nhân sâm có tác dụng tăng cường quá trình hình thành lipid và tích lũy AMP vòng ở các tế bào mỡ; một vài ginsenoside có tác dụng ức chế quá trình phân hủy lipid do ACTH gây nên và xóa bỏ quá trình hình thành lipid do insulin gây nên.

Đối với tuần hoàn

  • Với tim, các chế phẩm từ nhân sâm đối với tim ếch cô lập và tim tại chỗ của thỏ, mèo đều có tác dụng tăng cường sức co bóp. Sau khi xử lý với atropin, tác dụng cường tim của nhân sâm vẫn còn, nhịp tim không tăng nhanh. Nhân sâm còn có tác dụng làm giảm hoặc làm mất rối loạn nhịp tim do chloroform và adrenalin gây nên. Đối với rung thất trên mèo và thỏ thí nghiệm, nhân sâm có tác dụng cải thiện nhất định.

  • Với huyết áp: trên động vật gây mê, nhân sâm với liều nhỏ gây tăng huyết áp nhẹ, còn với liều lớn có tác dụng hạ huyết áp. Hiện tượng hạ áp có liên quan đến tác dụng làm giãn huyết quản của nhân sâm, atropin có tác dụng ức chế hiện tượng này. Đối với động mạch vành, mạch não và đáy mắt, nhân sâm đều có tác dụng gây giãn mạch. Có báo cáo cho rằng trong nhân sâm có thành phần cholin có liên quan đến tác dụng hạ áp. Các ginsenosid phong bế tác dụng gây co mạch của norepinephrir trên tiêu bản giải động mạch chủ của thỏ và ức chế sự thu nạp Ca2+ trong màng cơ tim; tác dụng ức chế sự thu nạp Ca2+ trong màng sợi cơ có thể cũng tham gia vào cơ chế gây giãn mạch.

Đặc điểm

Mô tả cây nhân sâm

Cây nhân sâm là một cây sống lâu năm, cao chừng 0,6m. Rễ mọc thành củ to.

Lá mọc vòng, có cuống dài, lá kép gồm nhiều lá chét mọc thành hình chân vịt. Nếu cây mới được một năm (nghĩa là sau khi gieo được 2 năm) thì cây chỉ có 1 lá với 3 lá chét, nếu cây nhân sâm được 2 năm cũng chỉ có 1 lá với 5 lá chét. Cây nhân sâm 3 năm có 2 lá kép, cây nhân sâm 4 năm có 3 lá kép, cây nhân sâm 5 năm trở lên có 4 đến 5 lá kép, tất cả đều có 5 lá chét (đặc biệt có thể có 6 lá chét) hình trứng, mép lá chét có răng cưa sâu. Bắt đầu từ năm thứ ba trở đi, cây nhân sâm mới cho hoa, kết quả.

Hoa xuất hiện vào mùa hạ. Cụm hoa hình tán mọc ở đầu cành, hoa màu xanh nhạt, 5 cánh hoa, 5 nhị, bầu hạ 2 núm.

Quả mọng hơi dẹt to bằng hạt đậu xanh, khi chín có màu đỏ, trong chứa 2 hạt. Hạt cây sâm năm thứ 3 chưa tốt. Thường người ta bấm bỏ đi đợi cây được 4-5 năm mới để ra quả và lấy hạt làm giống.

Mùa hoa: tháng 3-5; mùa quả tháng 6-8

Phân bố sinh thái

  • Chi Panax L. có khoảng hơn 10 loài trên thế giới, phân bố ở vùng ôn đới Bắc bán cầu. Trong đó, nhân sâm là loài cây thuốc nổi tiếng trong nền y học dân tộc Phương Đông từ thời thượng cổ đến nay.

  • Nhân sâm có vùng phân bố tự nhiên chủ yếu ở vùng núi thuộc Viễn Đông Liên bang Nga, phía bắc CHDCND Triều Tiên và Trung Quốc. Cây đã được trồng từ lâu đời ở bán đảo Triều Tiên, Trung Quốc và Liên bang Nga. Những năm gần đây, cây còn được nhập trồng ở Nhật Bản, Hoa Kỳ và cả ở Việt Nam. Tuy nhiên qua nhiều lần trồng thử nghiệm, cho đến nay đều chưa thành công ở Việt Nam.

  • Nhân sâm là cây của vùng ôn đới. Cây ưa khí hậu ẩm mát về mùa xuân hè và chịu đựng tốt trong điều kiện nhiệt độ thấp, với 3-4 tháng có băng tuyết của mùa đông. Mặc dù vậy, lượng mưa ở những vùng có nhân sâm mọc tự nhiên cũng như vùng trồng thường thấp hơn nhiều (chỉ bằng 50%) so với ở vùng nhiệt đới. Nhân sâm là cây đặc biệt ưa bóng. Trong tự nhiên, cây mọc dưới tán rừng kín, lẫn trong tầng cỏ quyết. Chính vì vậy, người ta phải trồng nhân sâm trong điều kiện vườn có mái che tới trên 80%. Để thích nghi với thời kỳ có nhiệt độ thấp trong năm, toàn bộ phần trên mặt đất của cây bị tàn lụi qua mùa đông. Chồi ngủ ở đầu rễ củ hình thành ngay từ giữa mùa hè, trong suốt mùa thu – đông tồn tại trong trạng thái “ngủ” và chỉ mọc lên khỏi mặt đất vào đầu mùa xuân năm sau. Cây nhân sâm trưởng thành (khoảng 3-4 tuổi) ra hoa quả hàng năm. Quả chín rơi xuống tầng thảm mục sẽ tồn tại qua mùa đông và nảy mầm vào mùa xuân năm sau. Hạt nhân sâm khô nhìn chung có khả năng nảy mầm tương đối thấp. Do đó, người ta thường phải gieo hạt lúc còn tươi.

  • Cây được trồng bằng hạt, thời gian gieo thường vào cuối tháng 10-11.

  • Cây sau 6 năm có thể thu hoạch được. Nhân sâm thường được thu hoạch vào mùa thu (từ tháng 9 đến tháng 10) đào củ, chú ý tránh làm rễ bị đứt, không phơi gió, phơi nắng để giữ nguyên độ ẩm trong sâm. Sau đó chia loại sâm tốt để chế hồng sâm, loại kém để chế bạch sâm.

Bộ phận dùng

  • Rễ cây nhân sâm, thu hoạch vào mùa xuân và mùa thu.

  • Người ta cho rằng loại mọc hoang tốt hơn loại trồng.

  • Trong y học cổ truyền, người ta phân biệt hai loại chính: hồng sâm và bạch sâm.

Sản phẩm có chứa Nhân sâm

widget

Chat Zalo(8h00 - 21h30)

widget

1900 1572(8h00 - 21h30)