Giao tại:
Giỏ hàng

Đã thêm sản phẩm vào giỏ thuốc

Xem giỏ thuốc
Hotline (8:00 - 21:30) 1900 1572

Chọn tỉnh thành, phường xã để xem chính xác giá và tồn kho

Địa chỉ đã chọn: Thành phố Hồ Chí Minh

Chọn
Thông tin

Nhục đậu khấu

Thông tin hoạt chất chỉ mang tính chất tham khảo chung. Để biết chi tiết của từng thuốc, mời bạn xem hướng dẫn sử dụng trong trang chi tiết.

Tên khác
Nhục quả, Ngọc quả, Đậu khấu, Già câu lắc, Muscade, Noix de Muscade
Công dụng

Nhục đậu khấu được dùng trong y học cổ truyền và y học hiện đại, để chữa các bệnh đường tiêu hóa như kiết lỵ, tiêu chảy mãi trương lực, đau bụng, đầy hơi. tiêu hóa kém, buồn nôn, nôn, suy mòn. Ở Ấn Độ, nhục đậu khấu còn được dùng để kích dục, gây sẩy thai. Dạng dùng thông thưởng là thuốc bát hoặc thuốc viên, ngày uống 0,25 - 0,50g, có thể đến 2g nếu bị tiêu chảy nặng. Dùng liều cao dễ bị ngộ độc, gây say.

Nhục đậu khấu và bơ nhục đầu khấu được dùng xoa bóp ngoài chữa tê thấp mãn tính, đau người, đau dây thần kinh tọa.

Áo hạt là thuốc bổ máu với liều dùng gấp đôi. Gỗ có tác dụng hạ sốt, bổ phổi và gan.

Dầu bay hơi chiết từ nhục đậu khấu có trong thành phần của nhiều chế phẩm ghi trong dược điển của nhiều nước như rượu thơm amoniac (Spiritus cammoniaelin aromaticus). rượu valerian amoniac (Tinctura valerianae ammonia) Dầu này nhỏ vào miếng đường rồi uống có tác dụng kích thích và lợi Trung tiện.

Dầu năng của nhục đậu khấu được dùng để tẩy giun, chế thuốc mỡ kích thích tóc mọc, thuốc uống nhuận tràng. Liều dùng của dầu là 1 - 3 giọt một lần.

Liều dùng - Cách dùng

Bài thuốc có nhục đậu khấu

1. Chữa kém ăn, ăn không tiêu:

Nhục đậu khấu 0,50g, nhục quế 0,50g, đinh hương 0,20g. Tất cả tán thành bột, trộn đều với lactose, chia làm 3 gói, ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 gói

2 Chữa tỳ vị hư hàn, đau bụng, đầy hơi, nôn mửa, tiêu chảy kéo dài:

Nhục đậu khấu hướng qua 0.5g, nhục quế 0,5g mài với nước hay rượu uống. Ngày 2 - 3 lần. Có thể dùng dạng thuốc bột gồm nhục đậu khấu 80g, quế 100g, đinh hương 40g, sa nhân 30g. Mỗi vị tán thành bột, trộn tất cả với 250g calci carbonat và 500g đường. Ngày uống 1 - 4g. Hoặc dùng bài thuốc gồm nhục đậu khẩu 40g, vỏ lưu 40g. Lấy cám gạo làm thành bánh, bao bọc nhục đậu khấu ở giữa, rồi đem nướng đến khi cảm cháy xém. Lấy hạt nhục đậu khấu gói vào giấy bản, đập cho dầu chảy ra thấm vào giấy bản Vỏ quả lưu thái nhỏ sao vàng . Hai thứ tán nhỏ, rây thành bột mịn, luyện với hồ làm viên bằng hạt đỗ đen .Ngày uống 3 lần vào lúc đó, mỗi lần 0,5 - 1,0g với nước ấm hoặc cháo loãng.

3. Thuốc giảm đau và chữa kiết lỵ, tiểu chảy cấp và mạn tính (Ấn Độ):

Nhục đậu khấu, quả chà là và nhựa thuốc phiện lượng bằng nhau, trộn với dịch ép của lá trầu không làm thành viên tròn, nặng 0,33g. Mỗi lần uống 1 viên, ngày 3 lần.

4. Chữa hen, đau bụng, đau dây thần kinh, rong kinh, đau kinh, ho do co thắt, đau lưng (Ấn Độ):

Bột kép chế từ nhục đậu khấu, ngọn cây gai mèo.

long não, bạch đậu khấu, đinh hương, bạch hòa xã, lượng bằng nhau. Liều dùng mỗi lần 0,75 - 1.50g. ngày 2 lần, uống với mật ong.

Chú ý

1. Dùng liều cao (có khi chỉ 1 hạt) sẽ gây ngộ độc, và có thể chết người. Triệu chứng ngộ độc là giãn đồng tử như khi ngộ độc belladon, tiểu tiện ra máu. Những người nhiệt tả, nhiệt lỵ và bệnh mới phát không dùng nhục đậu khấu.

2. Hai bài thuốc Ấn Độ nói trên có thuốc phiện và gai mèo là những vị thuốc độc dễ gây nghiện, dùng phải thận trọng.

Dược lý

Tính vị: vị cay, đắng, hơi chát, mùi thơm, tính ấm, có độc.

Quy kinh: vào 3 kinh tì, vị và đại tràng, có tác dụng ổn tì, thu sáp, chỉ nôn, chỉ tả, lỵ, tiêu thực.

1. Tác dụng ức chế enzym chuyển hóa thuốc ở gan: Chiết nhục đậu khấu bang n - hexan. sau đó phân lập có hệ thống được nhiều chất, trong đó có 3 chất được coi như hoạt chất là myristicin (I), licann (II) và dehydro isoeugenol (III).

Chất II và III được dùng liều duy nhất 200mg/kg, tiềm phúc mạc cho chuột nhất trắng có tác dụng kéo dài thời gian ngủ do hexobarbutal và kéo dài thời gian hạ sốt của aminopyrin (pyramidon). Nghiên cứu cơ chế tác dụng đã thấy, sở dĩ thuốc kéo dài thời gian ngủ của hexobarbital (II) vì chúng ức chế hoạt tính của enzym hydroxylase của H có ở gan (là enzym chuyển hóa, làm biến đổi phân tử thuốc H) do đó hexobarbital tồn tại trong cơ thể lâu hơn, làm tăng thời gian ngủ. Cũng như vậy, do thuốc ức chế enzym N-demethylase có ở gan (là enzym có tác dụng khử nhóm methyl của aminopyrin làm mất hoạt tính của aminopynn) nên làm kéo dài thời gian hạ sốt của aminopyrin.

Chất I và II còn làm cho chuột nhắt trắng ngủ ở liều hexobarbital thấp mà bình thường không gây ngủ. Như vậy thuốc có tác dụng ức chế thần kinh trung ương.

2. Tác dụng kích thích rồi ức chế: Nhục đậu khấu dùng liều thấp thị xúc tiến bài tiết dịch vị, giúp tiêu hóa tốt, kích thích nhu động ruột, gây ăn ngon. Liều cao, sau một thời gian kích thích ngắn, có hiện tượng mệt mỏi, buồn nôn, đau đầu, trì độn, buồn ngủ (có trạng thái tê mê).

3 Thử lâm sàng chữa tiêu chảy: 25 trẻ em bị tiêu chảy. không đặc hiểu được điều trị bằng bài thuốc gồm các vị nhục đậu khấu, quả của cây Cuminum cyminum L., đinh hương và borax, lượng bằng nhau. Liều dùng 100mg/kg/ngày. Sau 7 ngày 80% khỏi, những trẻ còn lại, khỏi vào tuần thứ hai (Ấn Độ).

4. Thử lâm sàng chữa sỏi thận (Ấn Độ): Bài thuốc làm thành viên nang 500mg, trong đó nhục đậu khấu 100mg, dây thần thông 100mg, nhọ nồi 100mg, thân rễ cây Bergenia ligulata 100mg, dây tóc tiên 50ng và cây Withania somnifera Dunal để chữa sỏi thận. Mỗi ngày uống một viên nang. Sỏi tan trong vòng 15 ngày, không thấy có tác dụng phụ. Một thủ nghiệm lâm sàng khác (cũng ở Ấn Độ) dùng bài thuốc trên có thêm quả của cây gai chống điều trị cho 30 bệnh nhân sỏi thận loại sỏi CaCO3, và Ca oxalat thấy các triệu chứng do sỏi giảm dần. Sỏi tan trong vòng 15 - 30 ngày.

Đặc điểm

Nhục Đậu Khấu cho ta các vị thuốc sau đây:

1. Nhục đậu khấu (Semen Myristicae) là nhân phơi hay sấy khô của cây nhục đậu khấu.

2. Ngọc quả hoa còn gọi là nhục đậu khấu y (Arillus Myristicae hay Macis) là áo của hạt nhục đậu khấu phơi hay sấy khô.

Mô tả cây

Nhục đậu khấu là một cây to, cao 8 - 10m. Toàn thân nhẵn. Lá mọc so le, xanh tươi quanh năm, dai, phiến lá hình mác rộng, dài 5 - 15cm, rộng 3 - 7cm, mép nguyên, cuống lá dài 7 - 12mm. Hoa khác gốc mọc thành xim ở kẽ lá, có dáng tán. Màu hoa vàng trắng. Quả hạch, hình cầu hay quả lê, màu vàng, đường kính 5 - 8cm, khi chín nở theo chiều dọc thành 2 mảnh, trong có một hạt có vỏ dày cứng, bao bọc bởi một áo hạt bị rách, màu hồng ( Hình 309 ). B. Phân bố, thu hái và chế biến

Cây nhục đậu khấu được trồng ở miền Nam Việt Nam và Cămpuchia. Còn mọc ở Inđônêxia, Malaixia, tây Ấn Độ, đã di thực được vào tỉnh Quảng Đông, miền nam Trung Quốc, giáp giới miền Bắc Việt Nam ta.

Trồng được 7 năm thì bắt đầu thu hoạch. Mỗi năm có thể thu hoạch 2 lần, một lần vào các tháng 11-12 và một lần vào các tháng 4-6. Khi đã bắt đầu thu hoạch thì có thể thu hoạch luôn trong vòng 60-75 năm. Mức thu hoạch cao nhất vào năm thứ 25. Từ năm thứ 10 đến năm thứ 25 hằng năm mỗi cây cho từ 1.500 đến 2.000 quả, nghĩa là chừng 8-10kg. Sau khi hái quả, loại bỏ vỏ quả. Sau đó lấy riêng áo hạt, ngâm muối rồi phơi hay sấy khô. Hạch đem sấy lửa nhẹ (60°) cho đến khi lắc lên thấy kêu lóc cóc (thường việc sấy này kéo dài tới 2 tháng) thì đem đập lấy nhân, phân loại to nhỏ rồi ngâm nước vôi, sau đó phơi hay sấy lại. Việc ngâm nước với này có mục đích để tránh bị sâu bọ mối mọt. Người ta phân loại nhục đậu khấu căn cứ vào to nhỏ, ví dụ 65, 80, 110 cho một bảng Anh (đơn vị trọng lượng). Càng ít nhân mà đã nặng bằng 1 bảng Anh là càng tốt.

Tài liệu được tham khảo từ: Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam - Tập 2 (Trang 472)

Sản phẩm có chứa Nhục đậu khấu

widget

Chat Zalo(8h00 - 21h30)

widget

1900 1572(8h00 - 21h30)